Thống Kê
Hiện có 3 người đang truy cập Diễn Đàn, gồm: 0 Thành viên, 0 Thành viên ẩn danh và 3 Khách viếng thăm Không
Số người truy cập cùng lúc nhiều nhất là 138 người, vào ngày Mon Oct 14, 2024 11:51 pm
Đăng Nhập
Diễn Đàn Thơ Riêng
- anhtu955
-
NTD HOA VIÊN
- Nhã Kỳ
- Caroline Judith
- Cô Đơn Mình Anh
- contimlanhlung
- Cao Nguyên
- Hải Âu
- Hương Như
- kurtcobain_vn
- Lam Điền
- Lâm Y Khách
- Lã Dở Hơi
- Lô Tô
- Nhậm Doanh Doanh
- Ngôi Sao Cô Đơn
- May Bac
- Mùa Đông
- mummim
- Minh Nhật
- Phạm Nhật
- Phong Thu
- Phiêu Dao
- Phượng_Hoàng
- Tan Vỡ Tình Đầu
- Từ Cát Tú
- Tử Long
- tuonglacphong
- Thuyen_Quyen
- Tramaha
- YVHT
Latest topics
» CẦN SỰ GIÚP ĐỞ CỦA CÁC THÀNH VIÊNby meocon_nhaky Sat May 22, 2021 1:50 am
» TẬP THƠ : TAN VỠ TÌNH ĐẦU !
by nguoitruongphu Sun Sep 20, 2020 4:19 am
» Những bản tình ca tiếng anh hay nhất [vietsub - lyrics - kara - effect]
by Thị Hến Sat Nov 10, 2018 10:26 pm
» 제이플라 J.Fla Cover Songs 2017 (Part 2)
by Thị Hến Sat Nov 10, 2018 10:25 pm
» Tinh Ve Noi Dau-Where Do We Go (Thanh Bui ft. Tata Young)
by Thị Hến Sat Nov 10, 2018 10:22 pm
» Ed Sheeran - Shape Of You ( cover by J.Fla )
by Thị Hến Sat Nov 10, 2018 10:20 pm
» Camila Cabello - Havana ( cover by J.Fla )
by Thị Hến Sat Nov 10, 2018 10:18 pm
» Camila Cabello - Havana (Official Audio) ft. Young Thug
by Thị Hến Sat Nov 10, 2018 10:17 pm
» Agar Tum Mil Jao - Tassawar Khanum - HD
by Thị Hến Sat Nov 10, 2018 10:14 pm
» Operacion Triunfo: Gala 5 - Nadia y Johana - Let it be
by Thị Hến Sat Nov 10, 2018 10:11 pm
» Frank Sinatra - My Way
by Thị Hến Sat Nov 10, 2018 10:07 pm
» Mughal - E - Azam - Teri Mehfil Mein Qismat - Lata Mangeshkar - Shamshad Begum - Chorus
by Thị Hến Sat Nov 10, 2018 9:56 pm
» The Beatles - Obladi oblada
by Thị Hến Sat Nov 10, 2018 9:51 pm
» Britney Spears - ...Baby One More Time (Lyrics + Español) Video Official
by Thị Hến Sat Nov 10, 2018 9:45 pm
» Westlife - My Love (Official Video)
by Thị Hến Sat Nov 10, 2018 9:36 pm
» Westlife - Swear It Again (Official Video)
by Thị Hến Sat Nov 10, 2018 9:34 pm
» Westlife - Fool Again (Official Video)
by Thị Hến Sat Nov 10, 2018 9:30 pm
» Westlife - If I Let You Go (Official Video)
by Thị Hến Sat Nov 10, 2018 9:29 pm
» M2M - Pretty Boy (With Lyrics)
by Thị Hến Sat Nov 10, 2018 9:25 pm
» M2M - The Day You Went Away
by Thị Hến Sat Nov 10, 2018 9:24 pm
» CẢI CÁCH CHỮ VIỆT (MT-169)
by Ntd Hoa Viên Fri Sep 07, 2018 1:41 pm
» TÌM VỀ HƯƠNG CỎ (MT-168)
by Ntd Hoa Viên Thu Jul 05, 2018 10:44 am
» MÃNH HỔ SA CƠ (MT-167)
by Ntd Hoa Viên Tue Apr 10, 2018 3:47 pm
» QUÁN TRỌ TRẦN GIAN (MT-166)
by Ntd Hoa Viên Fri Apr 06, 2018 6:32 am
» CƯỠI VẠT SƯƠNG CHIỀU (Mẫn Thanh-162-163)
by Ntd Hoa Viên Mon Apr 02, 2018 9:52 am
» Theo dõi thông tin world cup 2018 nhé
by sport06mkt Fri Mar 30, 2018 5:06 pm
» Theo dõi thông tin world cup 2018 nhé
by sport06mkt Tue Mar 27, 2018 5:50 pm
» Thông tin mới nhất về lịch thi đấu World Cup 2018
by sport06mkt Wed Mar 21, 2018 4:05 pm
» [SƠN DƯỢC] Thủ Heo Xào Hương Liệu
by RELAX Sun Feb 18, 2018 8:16 pm
» [SƠN DƯỢC] GÀ HẤP
by RELAX Sun Feb 18, 2018 7:54 pm
» [Sơn Dược] CÁC LOẠI GÀ
by RELAX Sun Feb 18, 2018 7:30 pm
» [SƠN DƯỢC] TÓP MỠ
by RELAX Sun Feb 18, 2018 6:43 pm
» [SƠN DƯỢC] MỰC NƯỚNG
by RELAX Sun Feb 18, 2018 6:34 pm
» [SƠN DƯỢC] LÒNG HEO PHÁ LẤU
by RELAX Sun Feb 18, 2018 6:32 pm
» [Sơn Dược] LẨU CÁ
by RELAX Sun Feb 18, 2018 6:24 pm
» MỚI PHÁT HIỆN TRANG NÀY THƯỞNG 1 TRIỆU NÈ MẤY CHẾ
by sport06mkt Wed Jan 10, 2018 4:09 pm
» EM LÀ GIRL XINH RỒNG HỔ ĐÂY MẤY ANH
by sport06mkt Tue Jan 09, 2018 4:50 pm
» SẮP ĐẾN TẾT RỒI, CÁC BÁC CÓ CHUẨN BỊ GÌ CHƯA
by sport06mkt Mon Jan 08, 2018 4:04 pm
» MỜI MẤY ANH VÔ ĐĂNG KÍ CÙNG PÉ RỒNG HỔ ĐỂ TRÚNG 3 TRIỆU NÈ
by sport06mkt Fri Jan 05, 2018 4:32 pm
» ĂN CHƠI NGÀY TẾT NÈ, KIẾM THÊM THU NHẬP ĐI NÀO
by sport06mkt Thu Jan 04, 2018 4:36 pm
» ĐĂNG KÍ LÀ CÓ THƯỞNG AH, DỄ QUÁ ĐI THÔI
by sport06mkt Wed Jan 03, 2018 12:16 pm
» BẠN MUỐN CÓ TIỀN ĐI CHƠI TẾT – QUÁ DỄ LUÔN
by sport06mkt Tue Jan 02, 2018 3:45 pm
» HOT GIRL RỒNG HỔ XIN TẶNG MẤY ANH 100K TIỀN THƯỞNG SAU KHI ĐĂNG KÍ TÀI KHOẢN
by sport06mkt Fri Dec 29, 2017 3:54 pm
» CHƠI BẮN CÁ ĐỂ ĐƯỢC THƯỞNG 3 TRIỆU ĐI CHƠI TẾT
by sport06mkt Thu Dec 28, 2017 5:19 pm
» Ngựa hí ngàn dặm Trải nghiệm kinh hoàngggg
by Sách Siêu Wed Dec 27, 2017 7:50 pm
» 10 Vận Động Viên Gian Lận Tại Thế Vận Hội Olympic
by Sách Siêu Wed Dec 27, 2017 7:44 pm
» Wang Rong Rollin - Chick Chick (王蓉 - 小雞小雞) MV
by Sách Siêu Wed Dec 27, 2017 7:30 pm
» BIG MOUTH (BM) BANAL NA ASO @ ZIRKOH MORATO
by Sách Siêu Wed Dec 27, 2017 7:25 pm
» Bài hát khó hát nhất thế giới :)) THẤP THỎM (忐忑) ca sĩ CUNG LÂM NA (龔琳娜) [HD]
by Sách Siêu Wed Dec 27, 2017 7:22 pm
» Top 5 bài khó hát nhất Thế giới
by Sách Siêu Wed Dec 27, 2017 7:20 pm
» Bài hát siêu chất thánh nào hát lại được ^_^
by Sách Siêu Wed Dec 27, 2017 7:18 pm
» Sặc cơm với tên khai sinh có 1 0 2 độc quyền của Việt Nam
by Sách Siêu Wed Dec 27, 2017 7:12 pm
» 10 bài kiểm tra của học trò khiến giáo viên cười ra nước mắt
by Sách Siêu Wed Dec 27, 2017 7:07 pm
» NGHỆ THUẬT VẼ 3D GÂY ẢO GIÁC CON TÊ GIÁC LUÔN
by Sách Siêu Wed Dec 27, 2017 6:36 pm
» Những Kiệt Tác Vẽ Bậy Sách Giáo Khoa - 100 Hilariously Defaced Textbooks
by Sách Siêu Wed Dec 27, 2017 6:33 pm
» 10 Người khiến Bill Gates cảm thấy TỦI THÂN vì NGHÈO QUÁ - Tốp 5 Kỳ Thú - Microsof
by Sách Siêu Wed Dec 27, 2017 6:23 pm
» 7 Pha ướp xác dưới băng hài hước của động vật - khoảng khắc kỳ thú - Tốp 5 Kỳ Thú
by Sách Siêu Wed Dec 27, 2017 6:18 pm
» ĐĂNG KÍ CÓ ĐƯỢC THƯỞNG ÍT NHẤT 3 TRIỆU NHOA NHOA
by sport06mkt Wed Dec 27, 2017 3:17 pm
» KIẾM TIỀN 3 TRIỆU ĐI CHƠI TẾT TÂY ĐI MẤY TÌNH YÊU ƠI
by sport06mkt Tue Dec 26, 2017 2:13 pm
» KIẾM 3.000.0000 TIỀN THƯỞNG KHI ĐĂNG KÍ NÀY
by sport06mkt Mon Dec 25, 2017 4:14 pm
» Wow, đăng kí là có cơ hội trúng iphone X nhen
by sport06mkt Fri Dec 22, 2017 3:39 pm
» HẤP DẪN LẮM ĐÓ NHA,ĐĂNG KÍ VỪA CÓ 100K VỪA ĐƯỢC ĐI CHƠI CÙNG HOT GIRL NOEL NÈ
by sport06mkt Thu Dec 21, 2017 3:38 pm
» Hương Tràm- Em Gái Mưa (Cover)- LyLy gần 4 tuổi
by Hương Như Wed Dec 20, 2017 9:21 pm
» Em mới kiếm được 1 triệu dễ dàng từ trang này nè mấy chế ơi
by sport06mkt Wed Dec 20, 2017 2:45 pm
» KIẾM 100K ĐI ĂN XÚC XÍCH NÈ
by sport06mkt Tue Dec 19, 2017 2:36 pm
» MOÁ ƠI, ĐĂNG KÍ LÀ CÓ NGAY 100K,DỄ THƯƠNG VÃI LUÔN
by sport06mkt Mon Dec 18, 2017 3:34 pm
» RỒNG HỔ LÊN MÂY – CÓ CÂY LÚC LẮC – HỎI THĂM 3 TRIỆU TIỀN THƯỞNG CÓ HAY CHƯA
by sport06mkt Fri Dec 15, 2017 11:39 am
» CHƠI BẮN CÁ, ĐƯỢC THƯỞNG 3 TRIỆU LIỀN À CÁCH CHƠI BẮN CÁ ĐƯỢC THƯỞNG 3 TRIỆU
by sport06mkt Thu Dec 14, 2017 5:45 pm
» CÓ VIP LÀ CÓ THƯỞNG – QUÀ TẶNG BAO LA
by sport06mkt Wed Dec 13, 2017 3:42 pm
» TRANG NÀY ĐẶC BIỆT QUÁ, TẠO TÀI KHOẢN CÓ THƯỞNG LUÔN
by sport06mkt Tue Dec 12, 2017 3:50 pm
» ƠN GIỜI CẬU ĐÂY RỒI 2015 | TẬP 12 - NGÔ KIẾN HUY & TRẤN THÀNH
by RELAX Mon Dec 11, 2017 10:38 pm
» Thầy tế Trấn Thành quyến rũ công chúa Ai Cập phản bội chồng con
by RELAX Mon Dec 11, 2017 9:49 pm
» ĐĂNG KÍ TÀI KHOẢN LÀ CÓ 1 TRIỆU LIỀN NHEN
by sport06mkt Mon Dec 11, 2017 4:17 pm
» Đĩa Bay Người Ngoài Hành Tinh Xuất Hiện Tại Malaysia
by RELAX Sat Dec 09, 2017 9:01 pm
» Bao Giờ Lấy Chồng? [OFFICIAL M/V]
by Thị Hến Sat Dec 09, 2017 8:36 pm
» Rằng Em Mãi Ở Bên [OFFICIAL M/V]
by Thị Hến Sat Dec 09, 2017 8:33 pm
» MỪNG GIÁNG SINH AN LÀNH – THƯỞNG 3 TRIỆU CHO AI ĐĂNG KÍ NÀO
by sport06mkt Fri Dec 08, 2017 4:23 pm
» NGỌN ĐUỐC TÀN (MT-159-160)
by Ntd Hoa Viên Thu Dec 07, 2017 5:16 pm
» NHANH TAY LÊN, ĐĂNG KÍ CÓ 3.000.000Đ
by sport06mkt Thu Dec 07, 2017 4:36 pm
» MR SIRO NGHE ĐI RỒI KHÓC ♪♪ Tuyển Tập Những Bài Hát Hay Nhất Của Mr Siro 2017
by lethuyhang Fri Dec 01, 2017 10:23 pm
Kĩ thuật làm thơ!
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Kĩ thuật làm thơ!
Lời nói đầu:Tất nhiên người làm thơ phải có tâm hồn và cảm hứng chân thật mới sáng tác được thơ hay. Tuy vậy, ngoài yếu tố trên, vấn đề kỹ thuật cũng đóng một vai trò khá quan trọng trong việc làm thơ. Kỹ thuật thơ là gì? Là tất cả những phương cách vận dụng giúp cho việc diễn đạt ý tưổng trong thơ được khéo, tinh tế, gây cảm xúc mạnh cho người thưởng thức.
Đại để kỹ thuật thơ có ba phần: hình thức cấu trúc, phương pháp diễn đạt, kỹ xảo.
I. Hình Thức Cấu Trúc: Hình thức là cái bình chứa đựng nội dung, tức là phần tinh túy của thơ.
Các hình thức cấu trúc gồm có: thể thơ và luật thơ. Thơ Việt Nam được cấu trúc theo các thể thơ cũ và mới. Thể thơ cũ gồm có các thể thơ Đường luật, phỏng theo Tàu như: thất ngôn, ngũ ngôn, các thể riêng của Việt Nam như: lục bát, song thất lục bát, ca trù… Mỗi thể thơ nầy đều có luật riêng. Thể thơ mới là các thể thơ phỏng theo Pháp, thơ tự do. (Vì khuôn khổ bài báo có hạn, người viết không thể dẫn đầy các thể thơ và luật thơ, khá nhiều chi tiết phức tạp. Xin độc giả tìm đọc ở các tác phẩm văn học sử, chẳng hạn cuốn “Việt Nam Văn Học Sử Yếu” của Dương Quảng Hàm).
II. Phương Pháp Diễn Đạt: Yếu tố quan trọng trong vấn đề kỹ thuật thơ là phương pháp diễn đạt (poetic diction).
1.- Phương pháp ẩn dụ (metaphor): Là cách nói bóng bẩy, biểu hiện ý so sánh vật nầy với vật kia, sự việc nầy với sự việc khác. Chẳng hạn người ta thường nói: bức màn đêm, sân khấu cuộc đời, vũ đài thế giới.
Một số từ thông thường được dùng trong phép ẩn dụ: – Những cây hồng nầy được trồng trên đất tốt (nghĩa đen). Hãy đọc câu nầy của nhà văn George Santazana:
- Đôi chân con người phải được trồng trên xứ sở của nó, nhưng đôi mắt nó nên nhìn ra khắp thế giới (nghĩa ẩn dụ).
Và hãy đọc câu nói thông thường:
- Chúng ta thường quét lá ra kỏi nhà xe (nghĩa đen) Với câu của nhà văn Virginia Woolf:
- Cô ta để trí tưởng tượng quét mọi sỏi đá, rác rưởi của thế giới đầy trong vực sâu vô thức của chúng ta (nghĩa ẩn dụ).
Tác giả A. Richards phân biệt hai phần ẩn dụ với những từ “ý nghĩa” (tenor) và truyền đạt (vehicle). Khi Macbeth (một nhân vật kịch Shakespeare) nói: Cuộc đời là một cái bóng di động, thì “cuộc đời” là “ý nghĩa” trong phép ẩn dụ và “cái bóng di động” là sự “truyền đạt”.
2. Phương pháp so sánh: Phép nầy thường đi đôi với phép ẩn dụ. Phép so sánh trong thơ không phải là phép so sánh thông thường. Khi người ta nói: “Xuân trông xấu như Thu”, đó là sự so sánh thông thường, nhưng khi nói: “Xuân xấu như tội lỗi” thì đó là sự so sánh khác thường của thơ. Ta thử đọc những câu trong bài thơ “Thu” của Xuân Diệu:
Nắng thu hoa cúc vàng lưng dậu
Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên
Sự so sánh màu vàng rực rỡ của hoa cúc trong mùa thu với sắc áo vàng vinh hiển của Trạng nguyên (thí sinh đỗ Trạng được vua ban áo vàng) có tính cách vừa so sánh vừa ẩn dụ. Hay trong bài “Nguyệt Cầm” cũng của Xuân Diệu:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng trăng nhớ hỡi trăng ngần
Ỡàn buồn đàn lặng ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân
Mây vắng trời trong đêm thủy tinh
Linh lung bóng sáng bỗng rùng mình…
Bốn bề ánh nhạc biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề…
Tác giả đã hỗn hợp ánh trăng với tiếng đàn nguyệt làm một phép so sánh và ẩn dụ biểu hiện ở những cụm từ: giọt đàn buồn – như lệ ngân, trời trong – đêm thủy tinh, bóng sáng – rung mình, biển pha lê – chiếc đảo hồn. Ta cũng đọc thêm mấy câu thơ của Bích Khê, đã dùng phép ẩn dụ và so sánh để mô tả mái tóc đen, làn môi thắm đượm của thiếu nữ:
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
Vài chút trăng say đọng ở làn môi
Câu thơ Kiều cũng thuộc loại nầy:
Mùi thiền đã bén muối dưa
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng
Sự đời đã tắt lửa lòng
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi
3. Phương pháp hoán dụ: Dùng những từ chỉ sự vật nầy để hình dung sự vật khác. Thơ cổ của ta hoặc Tàu thường dùng chữ “Long nhan”, “Bệ rồng”, “Cửu trùng” để chỉ vua, chữ “Hồng nhan”, “Má hồng” để chỉ người phụ nữ.
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Thành liền mong tiến bệ rồng
Thước gươm thề quyết chẳng dong giặc trời
(Chinh Phụ Ngâm)
Nhà thơ Milton viết: “Khi tôi nghĩ rằng ánh sáng của tôi đã mất” là ông đã dùng chữ “ánh sáng”để chỉ cái “ảo mộng” của ông.Trong bài thơ “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ có câu:
Ngàn xưa không lạnh nữa Tần phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian
Trích dẫn bài nầy ở quyển “Thi Nhân Việt Nam”, ông Hoài Thanh giải thích: “Thi nhân muốn nói dâng hồn mình cho người yêu, song nói như thế sẽ sỗ sàng quá. Nên phải cái hình ảnh “trời mây phảng phất nhuốm thời gian” để chỉ hồn mình”. Như vậy, hình ảnh “trời mây – hồn mình” là một cách sử dụng phép hoán dụ. Mấy câu thơ sau đây của Phạm Hầu, cũng dùng phép nầy:
Chẳng biết trong lòng ghé những ai
Thềm son từng dội gót vân hài
Hỡi ơi người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân Vọng hải đài
(Từ Vọng hải đài ở đây chỉ lòng người).
Hay hình ảnh con thuyền đánh cá trong thơ Tế Hanh:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Cái buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Chiếc thuyền hăng – con tuấn mã, cánh buồm to – mảnh hồn làng là những biểu tượng có tính cách hoán dụ. Những câu tả nhan sắc chị em Thúy Kiều, Thúy Vân cũng là một lối hoán dụ:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
4. Phương pháp nhân cách hóa: Là khoác lên sự vật tính cách của người. Xưa vua Trần Nhân Tông, sau cuộc bình Nguyên, đến Chiêu Lăng thấy chân ngựa đá dính bùn đất, bèn làm hai câu thơ:
Xã tắc hai phen bon ngựa đá
Non sông muôn thuở vững âu vàng
”Bon ngựa đá” là những từ nhân cách hóa. Thơ Xuân Diệu mô tả mùa thu với “rặng liễu”, “vầng trăng” được nhân cách hóa:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng…
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Phương xa khởi sự nhạt sương mờ
Tế Hanh cũng đã nhân cách hóa chiếc tàu lửa bằng những câu:
Tôi thấy tôi thương những chiếc tàu
Ngàn đời không đủ sức đi mau
Có chi vướng víu trong hơi máy
Những chiếc toa đầy nặng khổ đau
Bánh nghiến lăn lăn quá nặng nề
Khói phì như nghẹn nỗi đau tê
Lâu lâu còi rúc nghe rền rĩ
Lòng của người đi réo kẻ về
5. Phương pháp ngoa dụ, hay khoa trương: cách diễn đạt những sự vật có ý nghĩa tầm thường thành trọng đại. Thế Lữ mô tả con hổ ở vườn bách thú, mơ một thời làm chúa tể sơn lâm, đã dùng lối ngoa dụ:
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc
Trong đêm tối mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi
Hay như Đinh Hùng, mô tả một con người sơ khai, xa lạ giữa xã hội hiện đại:
Lòng đã khác ta trở về đô thị
Bỏ thiên nhiên huyền bí của ta xưa
Bóng ta đi trùm khắp lối hoang sơ
Và chân bước nghe chuyển rung đồi suốị…
Trông thấy ta cả cõi đời kinh hãi
Dòng sông con nép cạnh núi biên thùy
Ỡường châu thành quằn quại dưới chân đi
Xao động hết loài cỏ hoa đồng nội
Người và vật nhìn ta không dám nói
Chân lảng xa từng cặp mắt e dè
Ta ngẩn ngơ nhìn theo bóng ngựa xe
Nhìn theo mãi dến khi đời lánh cả
Và ta thấy hiện nguyên lòng sơn dã
Cảnh sắc nầy bỗng nhuộm máu tà dương
Ta khát khao ta tức giận hung cuồng
Bên thành quách ta ra tay tàn phá…
Hay như Nguyễn Du, từng có câu thơ biểu lộ chí hướng cao cả của mình:
Lăng tằng trường kiếm ỷ thanh thiên
(Từng phen chống kiếm ngạo trời xanh)
6. Phương pháp phúng dụ, hay ngụ ý: Cách diễn đạt thơ với những tình tiết có ngầm ý nghĩa riêng, để giáo dục hay giải thích những tư tưởng, nguyên tắc đạo đức.
Thơ cổ Việt Nam thường có những bài làm theo lối nầy. Như Nguyễn Bỉnh Khiêm từng cảnh cáo người đời với những câu đầy ngụ ý:
Non sông nào phải buổi bình thời
Thù đánh nhau chi khéo nực cười
Cá vực chim rừng ai khiến đuổi
Núi xương sông huyết thảm đầy vơi
Ngựa phi ắt có hồi quay cổ
Thú dữ nên phòng lúc cắn người
Trần Bích San nêu những đức tính, tài năng của con người chứa đựng trong hai câu thơ:
Văn phi sơn thủy vô kỳ khí
Nhân bất phong sương vị lão tài
(Văn có non sông vẻ lạ hay
Người không sương gió tài non yếu).
Và các bài thơ ngụ ngôn có thể xếp vào loại phúng dụ.
7. Phương pháp ám chỉ: lối diễn tả sự vật có hai hình tượng, ý nghĩa tương quan. Xuân Diệu, trong bài “Hoa đêm” có lối diễn tả nầy.
Ôi vắng lặng trong giờ mơ ngủ ấy
Bỗng hoa nhài thức dậy sánh từng đôị….
Sao họ khéo nõn nà mà bỡ ngỡ
Những nàng hoa chờ đợi gió phong lưu…
Chàng gió lại đi khuya ngoài khuất nẻo
Nghe tiếng thơm liều liệu đến tìm hương
Cánh du lang tha thướt phất qua tường
Áo công tử dải là vướng não ruột
Này hoa ngọc đã giật mình trắng nuốt
Thoảng tay tình gió vuốt cũng nao nao
Hương hiu hiu nên gió cũng ngọt ngào
Hôn nho nhỏ mà đầu hoa nặng trĩu…
Hình ảnh hoa đêm và gió khuya ám chỉ những hạng người giang hồ phóng đãng trong giới ăn chơi.
8. Phương pháp nghịch lý: lối diễn tả với những tình tiết trái ngược nhau về sự vật, hoàn cảnh, nhân tình thế thái.
Nguyễn Bỉnh Khiêm từng tự bảo mình, mà cũng là nhắn nhủ với đời:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Nguyễn Công Trứ mô tả hai cuộc sống khác nhau:
Thị tại môn tiền náo
Nguyệt lai môn hạ nhàn
(Trước cửa chợ ồn ào
Bên song trăng đến thảnh thơi)
Ngày Tết, Tú Xương làm thơ diễu thiên hạ với những lời:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang
Ỡứa thì mua tước đứa mua quan
Phen nầy ông quyết đi buôn lọng
Vừa chưởi vừa rao cũng đắt hàng
Lẳng lặng mà nghe nó chúc con
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn
Phố phường chật hẹp người đông đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non
Hay bài nói về thói đời:
Thế sự đua nhau nói dại khôn
Biết ai là dại biết ai khôn
Khôn nghề cờ bạc là khôn dại
Dại chốn văn chương ấy dại khôn
Mấy kẻ nên khôn đều có dại
Làm người có dại mới nên khôn
Cái khôn ai cũng khôn là thế
Mới biết trần gian kẻ dại khôn
9. Phương pháp nói vòng vo: lối diễn tả quanh co với nhiều chi tiết phụ để làm nổi bật ý chính. Ví dụ bài “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến:
Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng chợ thời xa
Ao sâu nước cả khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà
Cải chửa ra hoa cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn mướp đương hoa
Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta
Nhà thơ dùng lối nói vòng vo như trên cho vui thôi, thật sự thì vì nhà nghèo không có gì để mời khách. Bạn đến chơi chỉ trò chuyện với nhau là có tình rồi.
III. – Kỹ Xảo: Ngoài những phương pháp diễn đạt tinh tế, tân kỳ, đôi khi thơ hay còn do kỹ xảo.
Kỹ xảo là phương cách vận dụng tài tình các yếu tố cấu tạo nên bài thơ như: từ (word), câu (sentence), hình ảnh (imagery), nhạc điệu (rythm).
1. Từ: Bài “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ có câu:
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian
Hoài Thanh đã phê bình: Chữ “nhuốm” có vẻ nhẹ nhàng, không nặng nề như chữ “nhuộm”. Chữ “dâng” hơi kiểu cách. Ta nhận thấy biết cách dùng từ là làm tăng cái hay cái đẹp của thơ. Hoài Thanh nhận xét đúng về chữ “nhuốm”, nhưng chữ “dâng” tuy kiểu cách, nhưng không thể thay chữ nào khác hơn. Nếu thay chữ “dâng bằng chữ “hiến” hoặc chữ “tặng” chẳng hạn, thì câu thơ không còn đẹp nữa. Có những từ Hán thường được dùng trong thơ Việt ngày trước, có vẻ cồ mà vẫn làm cho thơ hay. Ví dụ thơ Cung Oán:
Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ
Quán thu phong đứng rũ tà huy
Nếu ta thay những từ thệ thủy, cổ độ, thu phong, tà huy là những từ Hán bằng từ Nôm:
Cầu nước chảy ngồi trơ bến cũ
Quán gió thu đứng rũ chiều tà
thì câu thơ kém vẻ hay. Thời mới, người ta ít dùng từ Hán, hay điển tích,trong thơ, vì cho rằng làm làm câu thơ có vẻ nặng nề,khó hiểu. Nhưng Đinh Hùng vẫn ưa dùng từ Hán:
Trăng ơi đừng bỏ kinh thành
Hồn cố đô vẫn thanh bình như xưa
Nhãn tiền chợt sáng thiên cơ
Biết chăng ảo phố mê đồ là đâu
Trong bốn câu thơ trên mà từ Hán chiếm đa số, song đọc ta vẫn thấy cảm xúc. Vũ Hoàng Chương cũng hay sử dụng từ Hán và điển tích trong thơ.
Phách ngọt đàn say nệm khói êm
Tiếng ca chừng nổi giữa chừng đêm
Canh khuya đưa khách lời reo ngọc
Mơ gái Tầm Dương thoảng áo xiêm
Gái Tầm Dương, tức là dùng điển người ca nữ trong thơ Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị. Nhưng đọc cũng thấy hay. Cũng như thơ Đoàn Phú Tứ:
Tóc mây một món chiếc dao vàng
Ngàn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng
Tác giả đã dùng điển tích Dương Quý Phi và Lý phu nhân, một ái phi cắt tóc dâng để gợi lòng nhớ thương của vua, người kia dấu mặt vì nhan sắc không còn như xưa, vua sẽ kém yêu. Dùng từ Hán (cổ) hay điển tích để gợi cảm cho thơ cũng tùy theo tác giả biết dùng kỹ xảo khi sáng tác.
2. Câu: Bài thơ thu của Xuân Diệu có câu:
Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Nguyên câu sau Xuân Diệu viết:
Với áo chùng thâm mặt rám vàng
Câu nầy không hay bằng câu sửa lại. Huy Cận làm bài thơ “Buồn Xưa” có câu:
Ngàn năm sực tỉnh lê thê
Trên thành son nhạt chiều tê tái sầu
Xuân Diệu sửa lại câu sau:
Trên thanh son nhạt chiều tê cúi đầu
Cho ý được kín đáo hơn, nhưng không hẳn câu sửa lại nầy hay hơn câu trước. Bích Khê có bài thơ tượng trưng “Duy Tân” với những câu:
Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới
Của lời thơ lóng đẹp. Hạt châu trong
Hạt châu trong ngời nhỏ giọt vô lòng
Về sau, nhà thơ sửa lại hai câu 3,4:
Của lời thơ lóng đẹp. Tiếng ươm hương
Tiếng ươm hương hòa nhạc vận du dương
Ta thấy câu sửa lại hay hơn câu cũ. Như vậy, ta thấy rằng các nhà thơ khi sửa chữa thơ họ, sử dụng đôi kỹ xảo mà thành công (hoặc ngược lại, tùy trường hợp, theo cảm quan của tác giả hay người đọc).
3. Hình Tượng: Bài thơ “Trăng” của Xuân Diệu là loại thơ đầy hình tượng:
Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá
Ánh sáng tuôn đầy các lối đi
Tôi với người yêu qua nhẹ nhẹ
Im lìm không dám nói năng chi
Bâng khuâng chân tiếc dậm lên vàng
Tôi sợ đường trăng tiếng dậy vang
Ngơ ngác hoa duyên còn núp lá
Và làm sai lỡ nhịp trăng đang
Dịu dàng đàn những ánh tơ xanh
Cho gió du dương điệu múa cành
Cho gió đượm buồn thôi náo động
Linh hồn yểu điệu của đêm thanh
Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ
Lạc giữa niềm êm chẳng bến bờ
Trăng sáng trăng xa trăng rộng quá
Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ
Cái cảm giác của tác giả về một đem trăng sáng khi đi dạo cùng người yêu với những động tác thầm lặng, không lời nói, bước nhẹ nhẹ, chân ngại dẫm lên ánh trăng, cảm thông với nhịp đàn trăng, lạc lõng trong cái biển sáng mênh mông, gợi lên cho ta cái hình tượng linh động của đôi tình nhân đi dạo trong một đêm trăng đẹp và thơ mộng. Trong truyện Kiều có hai câu thơ đầy hình tượng khi Kim Trọng gặp Kiều trong buổi sơ ngộ:
Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao
Với hình tượng nầy, thiên nhiên chung quanh đôi thanh niên nam nữ bỗng linh động hẳn lên với sắt màu rực rỡ, đầy sinh khí.
4. Nhạc điệu: Nhạc điệu là yếu tố quan trọng trong thơ về mặt hình thức.Dù làm theo thể thơ cũ hay thể thơ mới, đều có nhạc điệu. Ỡến cả thơ tự do, không bị hạn chế bởi âm luật cũng được tạo nên một nhạc điệu riêng để dễ gây cảm xúc cho người đọc. Ngày trước, nhóm thơ tượng trưng Xuân Thu Nhã Tập từng chủ trương thơ truyền cảm do nhạc điệu hơn là từ ý. Bài thơ “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ, in trong tập Xuân Thu Nhã Tập là một ví dụ. Đọc bài thơ nầy, có những câu người đọc có thể không hiểu hết ý, nhưng vẫn rung cảm với những lời thơ đầy nhạc điệu. Cũng vì vậy mà Bích Khê, Chế Lan Viên muốn đi theo con đường thơ tượng trưng, đã cố gắng tạo nhạc điệu đặc biệt trong thơ họ, trong khi lời thơ đầy ý tưởng mơ hồ, bí hiểm.
Im lặng nhìn bông ý lặng lờ lên
Những dáng hình thanh khí. Giữa mông mênh
Đường nhiếp ảnh sắc khua màu. Tiếng thở
Hỡi Hội họa đến muôn đời nức nở
Ta nhịp nhàng ý nhị nhịp theo ta
Lời nối lời bố thí nhịp tinh hoa
Của âm điệu mơ màng run lẩy bẩỵ..
(Bích Khê)
Trưa quanh vườn và võng gió an lành
Ngang phòng trưa ru hồn nhẹ cây xanh
Trưa quanh gốc. Và mộng hiền của bóng
Bỗng run theo… lá… run theo… nhịp võng
Trưa lên trời. và xanh thẳm bầu trời
Bỗng mê ly nằm thấy trắng mây trôị..
(Chế Lan Viên)
Một số nhà thơ đã sử dụng kỹ xảo láy âm vận ở các câu thơ để làm giàu thêm nhạc điệu:
Mau với chứ thời gian không đứng đợi
Tình thổi gió màu yêu lên phấp phới
Nhưng đôi ngày tình mới cũng thành xưa
(Xuân Diệu)
Âm vận mới (ở giữa câu 3) láy lại các âm vận “đợi”, ”phới “ (ở cuối câu 1,2) để làm mạnh âm hưởng của các câu thơ.
5. Thời trước, người ta hay làm thơ theo Đường luật, có vần, có niêm, đối chặt chẽ. Thể thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, có câu 3 – 4, 5 – 6 đối nhau thì người làm thơ phải tìm chữ đối cho chính xác, như danh từ, tính từ, trạng từ, động từ phải đối nhau từng đôi một và không những đối từ mà còn phải đối ý. Chẳng hạn:
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
(Bà Huyện Thanh Quan)
Nên lưu ý một chi tiết: Ngôn ngữ Việt Nam vốn là Hán – Việt, nên trong thơ có đối thì ngoài những điều kiện trên, các từ đối phải dùng từ Hán đối với Hán, Việt đối với Việt, chứ không thể Hán đối Việt hay Việt đối Hán. Ở những câu thơ trên ta thấy: ngư ông đối với mục tử (Hán), viễn phố đối với cô thôn (Hán), chim bay mỏi đối với khách bước dồn (Việt). Thơ khác văn ở chỗ có thể đảo từ xuôi ngược mà ý vẫn thuận: Ví dụ:
Huy hoàng trăng rộng nguy nga gió
Xanh biếc trời cao bạc đất bằng
(Xuân Diệu)
Hai câu nầy đọc theo văn:
Trăng rộng huy hoàng, gió nguy nga
Trời cao xanh biếc, đất bằng bạc
Hoặc câu thơ Kiều:
Sông Tần một dải xanh xanh
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương quan
Có thể đọc ra:
Mấy cành loi thoi (của) bờ liễu, (bên ải) Dương quan Huy cận:
Đêm thu khắc lậu canh tàn
Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm sương
Ta có thể đọc:
Gió trút lá cây, ngàn (rừng) ngậm gương trăng
Xuân Diệu có tài áp dụng cách nói của Tây Phương vào thơ, song đọc vẫn xuôi tai:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Hơn một loài hoa, nói theo cách Việt là: nhiều loài hoa. Hay nhà thơ chuyển đổi một câu thành ngữ của Pháp:
Partir c’est mourir un peu
(Đi là chết một ít)
Thành câu thơ Việt:
Yêu là chết trong lòng một ít
Thơ có thể hàm súc ý tưởng vắn, kín đáo mà vẫn hiểu được, như câu:
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
(Nguyễn Xuân Sanh)
Ta có thể hiểu: Đĩa ở đây là đĩa đèn thời xưa đốt bằng dầu và tim bấc. Dầu cạn đến đáy đĩa và bấc lụi ấy là quá trình diễn tiến, mùa (tượng trưng thời gian) đi nhịp hải hà (hải hà chỉ sự rộng lớn, đi nhịp hải hà là đi với tốc độ nhanh). Câu thơ trên có ý nghĩa tượng trưng về thời gian qua nhanh. Một câu thơ khác của Xuân Diệu, khá hàm súc:
Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người
Ý câu nầy là: Thấy trăng nay nhớ đến trăng xưa ở bến Tầm Dương, nghe nhạc nhớ đến người ca nữ trong bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị thời trước.
6. Một đôi kỹ xảo khác được các nhà thơ sử dụng như phép điệp âm, điệp vận, hay phép tràng lặp (anaphora). Chẳng hạn bài “Dại Khôn” dẫn ở trên. Nhà văn Nguyễn Tuân từng viết tùy bút về Huế có nhắc đến một bài thơ của ông Tú Hải Văn, làm theo phép nầy:
Ai vẫn thương Ai vẫn nhớ Ai
Khuyên Ai chớ vội giận hờn Ai
Những là dặm liễu bay hồn khách
Nào thấy mành hoa thoáng bóng Ai
Buồm thuận gió xuôi vui mặt bạn
Canh tàn rượu tỉnh giật mình Ai
Cầm tay dặn với ba câu chuyện
Biết cậy Ai về nhắn lại Ai
(Nhớ Huế)
7. Mỹ từ pháp: Nguyễn Du tả Kiều:
Gót sen sẽ động giấc vàng
Huy Cận có câu thơ:
Thôi đã tan rồi vạn gót hương
Của người đẹp tới tự trăm phương
Quang Dũng từng mơ người đẹp:
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Xưa Lý Bạch mô tả dáng điệu ẻo lả, mềm thơm của Dương
Quý Phi, như một nhành hoa sương đượm:
Nhất chi nùng diễm lộ ngưng hương
(Một cành nồng thắm sương đọng hương)
Tất cả lời và ý thơ trên đều sử dụng mỹ từ pháp, tức la dùng những “từ hoa” để nhấn mạnh vẻ đẹp của những sự vật mô tả.
o0o
Kỹ thuật không phải là yếu tố chính để cấu trúc nên một bài thơ. Một nhà thơ thiếu kinh nghiệm kỹ thuật làm thơ có thể làm thơ hay, nhưng cái hay có thể không trọn vẹn. Thơ họ có thể chứa đựng nhiều ý tưởng hay, đẹp, nhưng có hình thức vụng về về cách dùng chữ, đặt câu, hoặc lủng củng về âm vận, nhạc điệu… Tất cả các chi tiết nầy thuộc về kỹ thuật cấu tạo thơ, hay kỹ xảo tu chỉnh, do kinh nghiệm học hỏi hay sáng tác mà có. Ngày trước có những nhà thơ không vì tự ái cá nhân mà tìm cách học hỏi kinh nghiệm của các bậc đàn anh. Theo tiết lộ của ông Hoài Thanh, tác giả tập Thi Nhân Việt Nam, cho hay Xuân Diệu từng sửa thơ cho Huy Cận, hoặc chỉ dẫn Tế Hanh sáng tác. Như vậy, ta thấy rằng có hồn thơ để làm công việc sáng tạo chưa đủ, mà còn cần biết về kỹ thuật làm thơ va` co’ ít nhiều kiến thức về kỹ xảo càng hay
Tác giả: Lê Bảo Nguỵ Xuân Trúc.
Đại để kỹ thuật thơ có ba phần: hình thức cấu trúc, phương pháp diễn đạt, kỹ xảo.
I. Hình Thức Cấu Trúc: Hình thức là cái bình chứa đựng nội dung, tức là phần tinh túy của thơ.
Các hình thức cấu trúc gồm có: thể thơ và luật thơ. Thơ Việt Nam được cấu trúc theo các thể thơ cũ và mới. Thể thơ cũ gồm có các thể thơ Đường luật, phỏng theo Tàu như: thất ngôn, ngũ ngôn, các thể riêng của Việt Nam như: lục bát, song thất lục bát, ca trù… Mỗi thể thơ nầy đều có luật riêng. Thể thơ mới là các thể thơ phỏng theo Pháp, thơ tự do. (Vì khuôn khổ bài báo có hạn, người viết không thể dẫn đầy các thể thơ và luật thơ, khá nhiều chi tiết phức tạp. Xin độc giả tìm đọc ở các tác phẩm văn học sử, chẳng hạn cuốn “Việt Nam Văn Học Sử Yếu” của Dương Quảng Hàm).
II. Phương Pháp Diễn Đạt: Yếu tố quan trọng trong vấn đề kỹ thuật thơ là phương pháp diễn đạt (poetic diction).
1.- Phương pháp ẩn dụ (metaphor): Là cách nói bóng bẩy, biểu hiện ý so sánh vật nầy với vật kia, sự việc nầy với sự việc khác. Chẳng hạn người ta thường nói: bức màn đêm, sân khấu cuộc đời, vũ đài thế giới.
Một số từ thông thường được dùng trong phép ẩn dụ: – Những cây hồng nầy được trồng trên đất tốt (nghĩa đen). Hãy đọc câu nầy của nhà văn George Santazana:
- Đôi chân con người phải được trồng trên xứ sở của nó, nhưng đôi mắt nó nên nhìn ra khắp thế giới (nghĩa ẩn dụ).
Và hãy đọc câu nói thông thường:
- Chúng ta thường quét lá ra kỏi nhà xe (nghĩa đen) Với câu của nhà văn Virginia Woolf:
- Cô ta để trí tưởng tượng quét mọi sỏi đá, rác rưởi của thế giới đầy trong vực sâu vô thức của chúng ta (nghĩa ẩn dụ).
Tác giả A. Richards phân biệt hai phần ẩn dụ với những từ “ý nghĩa” (tenor) và truyền đạt (vehicle). Khi Macbeth (một nhân vật kịch Shakespeare) nói: Cuộc đời là một cái bóng di động, thì “cuộc đời” là “ý nghĩa” trong phép ẩn dụ và “cái bóng di động” là sự “truyền đạt”.
2. Phương pháp so sánh: Phép nầy thường đi đôi với phép ẩn dụ. Phép so sánh trong thơ không phải là phép so sánh thông thường. Khi người ta nói: “Xuân trông xấu như Thu”, đó là sự so sánh thông thường, nhưng khi nói: “Xuân xấu như tội lỗi” thì đó là sự so sánh khác thường của thơ. Ta thử đọc những câu trong bài thơ “Thu” của Xuân Diệu:
Nắng thu hoa cúc vàng lưng dậu
Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên
Sự so sánh màu vàng rực rỡ của hoa cúc trong mùa thu với sắc áo vàng vinh hiển của Trạng nguyên (thí sinh đỗ Trạng được vua ban áo vàng) có tính cách vừa so sánh vừa ẩn dụ. Hay trong bài “Nguyệt Cầm” cũng của Xuân Diệu:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng trăng nhớ hỡi trăng ngần
Ỡàn buồn đàn lặng ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân
Mây vắng trời trong đêm thủy tinh
Linh lung bóng sáng bỗng rùng mình…
Bốn bề ánh nhạc biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề…
Tác giả đã hỗn hợp ánh trăng với tiếng đàn nguyệt làm một phép so sánh và ẩn dụ biểu hiện ở những cụm từ: giọt đàn buồn – như lệ ngân, trời trong – đêm thủy tinh, bóng sáng – rung mình, biển pha lê – chiếc đảo hồn. Ta cũng đọc thêm mấy câu thơ của Bích Khê, đã dùng phép ẩn dụ và so sánh để mô tả mái tóc đen, làn môi thắm đượm của thiếu nữ:
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
Vài chút trăng say đọng ở làn môi
Câu thơ Kiều cũng thuộc loại nầy:
Mùi thiền đã bén muối dưa
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng
Sự đời đã tắt lửa lòng
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi
3. Phương pháp hoán dụ: Dùng những từ chỉ sự vật nầy để hình dung sự vật khác. Thơ cổ của ta hoặc Tàu thường dùng chữ “Long nhan”, “Bệ rồng”, “Cửu trùng” để chỉ vua, chữ “Hồng nhan”, “Má hồng” để chỉ người phụ nữ.
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Thành liền mong tiến bệ rồng
Thước gươm thề quyết chẳng dong giặc trời
(Chinh Phụ Ngâm)
Nhà thơ Milton viết: “Khi tôi nghĩ rằng ánh sáng của tôi đã mất” là ông đã dùng chữ “ánh sáng”để chỉ cái “ảo mộng” của ông.Trong bài thơ “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ có câu:
Ngàn xưa không lạnh nữa Tần phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian
Trích dẫn bài nầy ở quyển “Thi Nhân Việt Nam”, ông Hoài Thanh giải thích: “Thi nhân muốn nói dâng hồn mình cho người yêu, song nói như thế sẽ sỗ sàng quá. Nên phải cái hình ảnh “trời mây phảng phất nhuốm thời gian” để chỉ hồn mình”. Như vậy, hình ảnh “trời mây – hồn mình” là một cách sử dụng phép hoán dụ. Mấy câu thơ sau đây của Phạm Hầu, cũng dùng phép nầy:
Chẳng biết trong lòng ghé những ai
Thềm son từng dội gót vân hài
Hỡi ơi người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân Vọng hải đài
(Từ Vọng hải đài ở đây chỉ lòng người).
Hay hình ảnh con thuyền đánh cá trong thơ Tế Hanh:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Cái buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Chiếc thuyền hăng – con tuấn mã, cánh buồm to – mảnh hồn làng là những biểu tượng có tính cách hoán dụ. Những câu tả nhan sắc chị em Thúy Kiều, Thúy Vân cũng là một lối hoán dụ:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
4. Phương pháp nhân cách hóa: Là khoác lên sự vật tính cách của người. Xưa vua Trần Nhân Tông, sau cuộc bình Nguyên, đến Chiêu Lăng thấy chân ngựa đá dính bùn đất, bèn làm hai câu thơ:
Xã tắc hai phen bon ngựa đá
Non sông muôn thuở vững âu vàng
”Bon ngựa đá” là những từ nhân cách hóa. Thơ Xuân Diệu mô tả mùa thu với “rặng liễu”, “vầng trăng” được nhân cách hóa:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng…
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Phương xa khởi sự nhạt sương mờ
Tế Hanh cũng đã nhân cách hóa chiếc tàu lửa bằng những câu:
Tôi thấy tôi thương những chiếc tàu
Ngàn đời không đủ sức đi mau
Có chi vướng víu trong hơi máy
Những chiếc toa đầy nặng khổ đau
Bánh nghiến lăn lăn quá nặng nề
Khói phì như nghẹn nỗi đau tê
Lâu lâu còi rúc nghe rền rĩ
Lòng của người đi réo kẻ về
5. Phương pháp ngoa dụ, hay khoa trương: cách diễn đạt những sự vật có ý nghĩa tầm thường thành trọng đại. Thế Lữ mô tả con hổ ở vườn bách thú, mơ một thời làm chúa tể sơn lâm, đã dùng lối ngoa dụ:
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc
Trong đêm tối mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi
Hay như Đinh Hùng, mô tả một con người sơ khai, xa lạ giữa xã hội hiện đại:
Lòng đã khác ta trở về đô thị
Bỏ thiên nhiên huyền bí của ta xưa
Bóng ta đi trùm khắp lối hoang sơ
Và chân bước nghe chuyển rung đồi suốị…
Trông thấy ta cả cõi đời kinh hãi
Dòng sông con nép cạnh núi biên thùy
Ỡường châu thành quằn quại dưới chân đi
Xao động hết loài cỏ hoa đồng nội
Người và vật nhìn ta không dám nói
Chân lảng xa từng cặp mắt e dè
Ta ngẩn ngơ nhìn theo bóng ngựa xe
Nhìn theo mãi dến khi đời lánh cả
Và ta thấy hiện nguyên lòng sơn dã
Cảnh sắc nầy bỗng nhuộm máu tà dương
Ta khát khao ta tức giận hung cuồng
Bên thành quách ta ra tay tàn phá…
Hay như Nguyễn Du, từng có câu thơ biểu lộ chí hướng cao cả của mình:
Lăng tằng trường kiếm ỷ thanh thiên
(Từng phen chống kiếm ngạo trời xanh)
6. Phương pháp phúng dụ, hay ngụ ý: Cách diễn đạt thơ với những tình tiết có ngầm ý nghĩa riêng, để giáo dục hay giải thích những tư tưởng, nguyên tắc đạo đức.
Thơ cổ Việt Nam thường có những bài làm theo lối nầy. Như Nguyễn Bỉnh Khiêm từng cảnh cáo người đời với những câu đầy ngụ ý:
Non sông nào phải buổi bình thời
Thù đánh nhau chi khéo nực cười
Cá vực chim rừng ai khiến đuổi
Núi xương sông huyết thảm đầy vơi
Ngựa phi ắt có hồi quay cổ
Thú dữ nên phòng lúc cắn người
Trần Bích San nêu những đức tính, tài năng của con người chứa đựng trong hai câu thơ:
Văn phi sơn thủy vô kỳ khí
Nhân bất phong sương vị lão tài
(Văn có non sông vẻ lạ hay
Người không sương gió tài non yếu).
Và các bài thơ ngụ ngôn có thể xếp vào loại phúng dụ.
7. Phương pháp ám chỉ: lối diễn tả sự vật có hai hình tượng, ý nghĩa tương quan. Xuân Diệu, trong bài “Hoa đêm” có lối diễn tả nầy.
Ôi vắng lặng trong giờ mơ ngủ ấy
Bỗng hoa nhài thức dậy sánh từng đôị….
Sao họ khéo nõn nà mà bỡ ngỡ
Những nàng hoa chờ đợi gió phong lưu…
Chàng gió lại đi khuya ngoài khuất nẻo
Nghe tiếng thơm liều liệu đến tìm hương
Cánh du lang tha thướt phất qua tường
Áo công tử dải là vướng não ruột
Này hoa ngọc đã giật mình trắng nuốt
Thoảng tay tình gió vuốt cũng nao nao
Hương hiu hiu nên gió cũng ngọt ngào
Hôn nho nhỏ mà đầu hoa nặng trĩu…
Hình ảnh hoa đêm và gió khuya ám chỉ những hạng người giang hồ phóng đãng trong giới ăn chơi.
8. Phương pháp nghịch lý: lối diễn tả với những tình tiết trái ngược nhau về sự vật, hoàn cảnh, nhân tình thế thái.
Nguyễn Bỉnh Khiêm từng tự bảo mình, mà cũng là nhắn nhủ với đời:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Nguyễn Công Trứ mô tả hai cuộc sống khác nhau:
Thị tại môn tiền náo
Nguyệt lai môn hạ nhàn
(Trước cửa chợ ồn ào
Bên song trăng đến thảnh thơi)
Ngày Tết, Tú Xương làm thơ diễu thiên hạ với những lời:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang
Ỡứa thì mua tước đứa mua quan
Phen nầy ông quyết đi buôn lọng
Vừa chưởi vừa rao cũng đắt hàng
Lẳng lặng mà nghe nó chúc con
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn
Phố phường chật hẹp người đông đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non
Hay bài nói về thói đời:
Thế sự đua nhau nói dại khôn
Biết ai là dại biết ai khôn
Khôn nghề cờ bạc là khôn dại
Dại chốn văn chương ấy dại khôn
Mấy kẻ nên khôn đều có dại
Làm người có dại mới nên khôn
Cái khôn ai cũng khôn là thế
Mới biết trần gian kẻ dại khôn
9. Phương pháp nói vòng vo: lối diễn tả quanh co với nhiều chi tiết phụ để làm nổi bật ý chính. Ví dụ bài “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến:
Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng chợ thời xa
Ao sâu nước cả khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà
Cải chửa ra hoa cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn mướp đương hoa
Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta
Nhà thơ dùng lối nói vòng vo như trên cho vui thôi, thật sự thì vì nhà nghèo không có gì để mời khách. Bạn đến chơi chỉ trò chuyện với nhau là có tình rồi.
III. – Kỹ Xảo: Ngoài những phương pháp diễn đạt tinh tế, tân kỳ, đôi khi thơ hay còn do kỹ xảo.
Kỹ xảo là phương cách vận dụng tài tình các yếu tố cấu tạo nên bài thơ như: từ (word), câu (sentence), hình ảnh (imagery), nhạc điệu (rythm).
1. Từ: Bài “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ có câu:
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian
Hoài Thanh đã phê bình: Chữ “nhuốm” có vẻ nhẹ nhàng, không nặng nề như chữ “nhuộm”. Chữ “dâng” hơi kiểu cách. Ta nhận thấy biết cách dùng từ là làm tăng cái hay cái đẹp của thơ. Hoài Thanh nhận xét đúng về chữ “nhuốm”, nhưng chữ “dâng” tuy kiểu cách, nhưng không thể thay chữ nào khác hơn. Nếu thay chữ “dâng bằng chữ “hiến” hoặc chữ “tặng” chẳng hạn, thì câu thơ không còn đẹp nữa. Có những từ Hán thường được dùng trong thơ Việt ngày trước, có vẻ cồ mà vẫn làm cho thơ hay. Ví dụ thơ Cung Oán:
Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ
Quán thu phong đứng rũ tà huy
Nếu ta thay những từ thệ thủy, cổ độ, thu phong, tà huy là những từ Hán bằng từ Nôm:
Cầu nước chảy ngồi trơ bến cũ
Quán gió thu đứng rũ chiều tà
thì câu thơ kém vẻ hay. Thời mới, người ta ít dùng từ Hán, hay điển tích,trong thơ, vì cho rằng làm làm câu thơ có vẻ nặng nề,khó hiểu. Nhưng Đinh Hùng vẫn ưa dùng từ Hán:
Trăng ơi đừng bỏ kinh thành
Hồn cố đô vẫn thanh bình như xưa
Nhãn tiền chợt sáng thiên cơ
Biết chăng ảo phố mê đồ là đâu
Trong bốn câu thơ trên mà từ Hán chiếm đa số, song đọc ta vẫn thấy cảm xúc. Vũ Hoàng Chương cũng hay sử dụng từ Hán và điển tích trong thơ.
Phách ngọt đàn say nệm khói êm
Tiếng ca chừng nổi giữa chừng đêm
Canh khuya đưa khách lời reo ngọc
Mơ gái Tầm Dương thoảng áo xiêm
Gái Tầm Dương, tức là dùng điển người ca nữ trong thơ Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị. Nhưng đọc cũng thấy hay. Cũng như thơ Đoàn Phú Tứ:
Tóc mây một món chiếc dao vàng
Ngàn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng
Tác giả đã dùng điển tích Dương Quý Phi và Lý phu nhân, một ái phi cắt tóc dâng để gợi lòng nhớ thương của vua, người kia dấu mặt vì nhan sắc không còn như xưa, vua sẽ kém yêu. Dùng từ Hán (cổ) hay điển tích để gợi cảm cho thơ cũng tùy theo tác giả biết dùng kỹ xảo khi sáng tác.
2. Câu: Bài thơ thu của Xuân Diệu có câu:
Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Nguyên câu sau Xuân Diệu viết:
Với áo chùng thâm mặt rám vàng
Câu nầy không hay bằng câu sửa lại. Huy Cận làm bài thơ “Buồn Xưa” có câu:
Ngàn năm sực tỉnh lê thê
Trên thành son nhạt chiều tê tái sầu
Xuân Diệu sửa lại câu sau:
Trên thanh son nhạt chiều tê cúi đầu
Cho ý được kín đáo hơn, nhưng không hẳn câu sửa lại nầy hay hơn câu trước. Bích Khê có bài thơ tượng trưng “Duy Tân” với những câu:
Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới
Của lời thơ lóng đẹp. Hạt châu trong
Hạt châu trong ngời nhỏ giọt vô lòng
Về sau, nhà thơ sửa lại hai câu 3,4:
Của lời thơ lóng đẹp. Tiếng ươm hương
Tiếng ươm hương hòa nhạc vận du dương
Ta thấy câu sửa lại hay hơn câu cũ. Như vậy, ta thấy rằng các nhà thơ khi sửa chữa thơ họ, sử dụng đôi kỹ xảo mà thành công (hoặc ngược lại, tùy trường hợp, theo cảm quan của tác giả hay người đọc).
3. Hình Tượng: Bài thơ “Trăng” của Xuân Diệu là loại thơ đầy hình tượng:
Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá
Ánh sáng tuôn đầy các lối đi
Tôi với người yêu qua nhẹ nhẹ
Im lìm không dám nói năng chi
Bâng khuâng chân tiếc dậm lên vàng
Tôi sợ đường trăng tiếng dậy vang
Ngơ ngác hoa duyên còn núp lá
Và làm sai lỡ nhịp trăng đang
Dịu dàng đàn những ánh tơ xanh
Cho gió du dương điệu múa cành
Cho gió đượm buồn thôi náo động
Linh hồn yểu điệu của đêm thanh
Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ
Lạc giữa niềm êm chẳng bến bờ
Trăng sáng trăng xa trăng rộng quá
Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ
Cái cảm giác của tác giả về một đem trăng sáng khi đi dạo cùng người yêu với những động tác thầm lặng, không lời nói, bước nhẹ nhẹ, chân ngại dẫm lên ánh trăng, cảm thông với nhịp đàn trăng, lạc lõng trong cái biển sáng mênh mông, gợi lên cho ta cái hình tượng linh động của đôi tình nhân đi dạo trong một đêm trăng đẹp và thơ mộng. Trong truyện Kiều có hai câu thơ đầy hình tượng khi Kim Trọng gặp Kiều trong buổi sơ ngộ:
Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao
Với hình tượng nầy, thiên nhiên chung quanh đôi thanh niên nam nữ bỗng linh động hẳn lên với sắt màu rực rỡ, đầy sinh khí.
4. Nhạc điệu: Nhạc điệu là yếu tố quan trọng trong thơ về mặt hình thức.Dù làm theo thể thơ cũ hay thể thơ mới, đều có nhạc điệu. Ỡến cả thơ tự do, không bị hạn chế bởi âm luật cũng được tạo nên một nhạc điệu riêng để dễ gây cảm xúc cho người đọc. Ngày trước, nhóm thơ tượng trưng Xuân Thu Nhã Tập từng chủ trương thơ truyền cảm do nhạc điệu hơn là từ ý. Bài thơ “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ, in trong tập Xuân Thu Nhã Tập là một ví dụ. Đọc bài thơ nầy, có những câu người đọc có thể không hiểu hết ý, nhưng vẫn rung cảm với những lời thơ đầy nhạc điệu. Cũng vì vậy mà Bích Khê, Chế Lan Viên muốn đi theo con đường thơ tượng trưng, đã cố gắng tạo nhạc điệu đặc biệt trong thơ họ, trong khi lời thơ đầy ý tưởng mơ hồ, bí hiểm.
Im lặng nhìn bông ý lặng lờ lên
Những dáng hình thanh khí. Giữa mông mênh
Đường nhiếp ảnh sắc khua màu. Tiếng thở
Hỡi Hội họa đến muôn đời nức nở
Ta nhịp nhàng ý nhị nhịp theo ta
Lời nối lời bố thí nhịp tinh hoa
Của âm điệu mơ màng run lẩy bẩỵ..
(Bích Khê)
Trưa quanh vườn và võng gió an lành
Ngang phòng trưa ru hồn nhẹ cây xanh
Trưa quanh gốc. Và mộng hiền của bóng
Bỗng run theo… lá… run theo… nhịp võng
Trưa lên trời. và xanh thẳm bầu trời
Bỗng mê ly nằm thấy trắng mây trôị..
(Chế Lan Viên)
Một số nhà thơ đã sử dụng kỹ xảo láy âm vận ở các câu thơ để làm giàu thêm nhạc điệu:
Mau với chứ thời gian không đứng đợi
Tình thổi gió màu yêu lên phấp phới
Nhưng đôi ngày tình mới cũng thành xưa
(Xuân Diệu)
Âm vận mới (ở giữa câu 3) láy lại các âm vận “đợi”, ”phới “ (ở cuối câu 1,2) để làm mạnh âm hưởng của các câu thơ.
5. Thời trước, người ta hay làm thơ theo Đường luật, có vần, có niêm, đối chặt chẽ. Thể thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, có câu 3 – 4, 5 – 6 đối nhau thì người làm thơ phải tìm chữ đối cho chính xác, như danh từ, tính từ, trạng từ, động từ phải đối nhau từng đôi một và không những đối từ mà còn phải đối ý. Chẳng hạn:
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
(Bà Huyện Thanh Quan)
Nên lưu ý một chi tiết: Ngôn ngữ Việt Nam vốn là Hán – Việt, nên trong thơ có đối thì ngoài những điều kiện trên, các từ đối phải dùng từ Hán đối với Hán, Việt đối với Việt, chứ không thể Hán đối Việt hay Việt đối Hán. Ở những câu thơ trên ta thấy: ngư ông đối với mục tử (Hán), viễn phố đối với cô thôn (Hán), chim bay mỏi đối với khách bước dồn (Việt). Thơ khác văn ở chỗ có thể đảo từ xuôi ngược mà ý vẫn thuận: Ví dụ:
Huy hoàng trăng rộng nguy nga gió
Xanh biếc trời cao bạc đất bằng
(Xuân Diệu)
Hai câu nầy đọc theo văn:
Trăng rộng huy hoàng, gió nguy nga
Trời cao xanh biếc, đất bằng bạc
Hoặc câu thơ Kiều:
Sông Tần một dải xanh xanh
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương quan
Có thể đọc ra:
Mấy cành loi thoi (của) bờ liễu, (bên ải) Dương quan Huy cận:
Đêm thu khắc lậu canh tàn
Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm sương
Ta có thể đọc:
Gió trút lá cây, ngàn (rừng) ngậm gương trăng
Xuân Diệu có tài áp dụng cách nói của Tây Phương vào thơ, song đọc vẫn xuôi tai:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Hơn một loài hoa, nói theo cách Việt là: nhiều loài hoa. Hay nhà thơ chuyển đổi một câu thành ngữ của Pháp:
Partir c’est mourir un peu
(Đi là chết một ít)
Thành câu thơ Việt:
Yêu là chết trong lòng một ít
Thơ có thể hàm súc ý tưởng vắn, kín đáo mà vẫn hiểu được, như câu:
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
(Nguyễn Xuân Sanh)
Ta có thể hiểu: Đĩa ở đây là đĩa đèn thời xưa đốt bằng dầu và tim bấc. Dầu cạn đến đáy đĩa và bấc lụi ấy là quá trình diễn tiến, mùa (tượng trưng thời gian) đi nhịp hải hà (hải hà chỉ sự rộng lớn, đi nhịp hải hà là đi với tốc độ nhanh). Câu thơ trên có ý nghĩa tượng trưng về thời gian qua nhanh. Một câu thơ khác của Xuân Diệu, khá hàm súc:
Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người
Ý câu nầy là: Thấy trăng nay nhớ đến trăng xưa ở bến Tầm Dương, nghe nhạc nhớ đến người ca nữ trong bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị thời trước.
6. Một đôi kỹ xảo khác được các nhà thơ sử dụng như phép điệp âm, điệp vận, hay phép tràng lặp (anaphora). Chẳng hạn bài “Dại Khôn” dẫn ở trên. Nhà văn Nguyễn Tuân từng viết tùy bút về Huế có nhắc đến một bài thơ của ông Tú Hải Văn, làm theo phép nầy:
Ai vẫn thương Ai vẫn nhớ Ai
Khuyên Ai chớ vội giận hờn Ai
Những là dặm liễu bay hồn khách
Nào thấy mành hoa thoáng bóng Ai
Buồm thuận gió xuôi vui mặt bạn
Canh tàn rượu tỉnh giật mình Ai
Cầm tay dặn với ba câu chuyện
Biết cậy Ai về nhắn lại Ai
(Nhớ Huế)
7. Mỹ từ pháp: Nguyễn Du tả Kiều:
Gót sen sẽ động giấc vàng
Huy Cận có câu thơ:
Thôi đã tan rồi vạn gót hương
Của người đẹp tới tự trăm phương
Quang Dũng từng mơ người đẹp:
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Xưa Lý Bạch mô tả dáng điệu ẻo lả, mềm thơm của Dương
Quý Phi, như một nhành hoa sương đượm:
Nhất chi nùng diễm lộ ngưng hương
(Một cành nồng thắm sương đọng hương)
Tất cả lời và ý thơ trên đều sử dụng mỹ từ pháp, tức la dùng những “từ hoa” để nhấn mạnh vẻ đẹp của những sự vật mô tả.
o0o
Kỹ thuật không phải là yếu tố chính để cấu trúc nên một bài thơ. Một nhà thơ thiếu kinh nghiệm kỹ thuật làm thơ có thể làm thơ hay, nhưng cái hay có thể không trọn vẹn. Thơ họ có thể chứa đựng nhiều ý tưởng hay, đẹp, nhưng có hình thức vụng về về cách dùng chữ, đặt câu, hoặc lủng củng về âm vận, nhạc điệu… Tất cả các chi tiết nầy thuộc về kỹ thuật cấu tạo thơ, hay kỹ xảo tu chỉnh, do kinh nghiệm học hỏi hay sáng tác mà có. Ngày trước có những nhà thơ không vì tự ái cá nhân mà tìm cách học hỏi kinh nghiệm của các bậc đàn anh. Theo tiết lộ của ông Hoài Thanh, tác giả tập Thi Nhân Việt Nam, cho hay Xuân Diệu từng sửa thơ cho Huy Cận, hoặc chỉ dẫn Tế Hanh sáng tác. Như vậy, ta thấy rằng có hồn thơ để làm công việc sáng tạo chưa đủ, mà còn cần biết về kỹ thuật làm thơ va` co’ ít nhiều kiến thức về kỹ xảo càng hay
Tác giả: Lê Bảo Nguỵ Xuân Trúc.
Sách Siêu- Người Giàu Nhất Quán
- Tổng số bài gửi : 485
Mỹ Kim : 1735
Join date : 06/12/2009
Similar topics
» Nghệ thuật ăn mày (khác chi nghệ thuật kinh doanh?)
» Võ thuật ...
» Ao Thuat Vui
» Ảo thuật vui
» Mổ lấy thai
» Võ thuật ...
» Ao Thuat Vui
» Ảo thuật vui
» Mổ lấy thai
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết